nhiễm cmv trẻ em

Trẻ em, đường tiểu dễ bị nhiễm khuẩn do sức đề kháng yếu hoặc có dị tật ở hệ tiết niệu. Bệnh diễn tiến âm thầm, nếu không điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy thận. Những vi khuẩn trong ruột có thể gây nhiễm trùng một khi chúng xâm nhập vào những cơ quan Nhiễm trùng bẩm sinh có thể gây ra chậm phát triển trí tuệ bao gồm bệnh rubella và các bệnh do CMV, Toxoplasma gondii,Treponema pallidum, HSV hoặc HIV. Gần đây, nhiễm virut Zika trước sinh có liên quan tới chứng đầu nhỏ bẩm sinh và chậm phát triển trí tuệ Tiếp xúc với thuốc và chất độc trước khi sinhcó thể gây ra chậm phát triển trí tuệ. CMV tấn công bất kì ai. Những người khỏe mạnh, triệu chứng bệnh thường nhẹ, không điển hình. Bệnh thường nặng ở phụ nữ có thai, trẻ em, người có hệ miễn dịch kém, suy giảm miễn dịch. Đặc biệt, đây cũng là một trong số các nguyên nhân gây sảy thai liên tiếp, dị tật bẩm sinh, nhiễm trùng sơ sinh. Nội dung chính 1. Đặc điểm của Cytomegalo virus (CMV) Tuy nhiên mức độ phơi nhiễm cụ thể lại tùy thuộc vào lứa tuổi: Ở trẻ sơ sinh có khoảng 1% bị phơi nhiễm và 58,9% từ 6 tuổi trở lên bị nhiễm CMV, trong khi có đến 90,8% những người có độ tuổi 80 trở lên đã từng bị phơi nhiễm với CMV [3]. TOP 5 bệnh truyền nhiễm thường gặp ở trẻ em 2.1 Bệnh tay chân miệng Tay chân miệng là loại bệnh nhiễm trùng do virus Coxsackievirus A16 và Enterovirus E71 gây ra. Biểu hiện ban đầu của bệnh là mệt mỏi, đau họng và sốt nhẹ. Sau khoảng 2 ngày, các nốt mụn nước bắt đầu xuất hiện trong lòng bàn tay, bàn chân, đôi khi ở mông hoặc quanh hậu môn của bé. mimpi dikasih makanan sama orang yang sudah meninggal. A infecção pelo citomegalovírus é causada por um maioria dos recém-nascidos não apresenta sintomas, mas algumas apresentam sintomas a depender de quando foram médicos diagnosticam a infecção identificando o vírus em uma amostra de urina, saliva, sangue ou recém-nascidos podem desenvolver problemas neurológicos como perda lavagem das mãos pode ajudar a prevenir a propagação do infecção pelo citomegalovírus não pode ser curada, mas alguns antivirais podem limitar os problemas causados pela infecção provocada pelo citomegalovírus CMV é muito comum. Exames de sangue mostram que entre 60% e 90% dos adultos sofreram uma infecção por CMV em algum momento da sua vida. O vírus nunca desaparece completamente e permanece dormente inativo em vários tecidos por toda a vida. Às vezes, o vírus é que nunca tiveram CMV podem adquirir a infecção facilmente através do contato com pessoas infectadas, mais comumente crianças pequenas. A mulher também pode ter CMV ativo porque uma infecção anteriormente dormente foi reativada. Em qualquer dos casos, a mulher pode não apresentar nenhum sintoma. Quando um bebê contrai a infecção por CMV dentro do útero, ela é chamada de infecção congênita por CMV. Quando um bebê desenvolve a infecção imediatamente antes, durante ou logo após o nascimento, ela é chamada de infecção perinatal por CMV. infecção por CMV é a infecção viral congênita mais mulher pode passar o vírus para o feto durante a gravidez se o vírus atravessar a placenta o órgão que fornece nutrição ao feto e infectar o feto. Os recém-nascidos também podem ser infectados durante a passagem pelo canal de parto, leite materno contendo o vírus ou através de uma transfusão de sangue infecção pelo CMV pode causar problemas diferentes em recém‑nascidos, dependendo se eles foram infectados antes ou após o nascimento. Dentre os recém-nascidos infectados pelo CMV antes do nascimento, apenas cerca de 10% apresentam recém-nascidos infectados antes do nascimento, os sintomas possíveis incluem Baixo peso de nascimentoPequenas equimoses na peleFígado ou baço aumentadoInflamação dos pulmões ou olhosEm recém-nascidos infectados durante ou após o nascimento, os sintomas possíveis incluem Fígado ou baço aumentadoAlta contagem de glóbulos brancosAlguns recém-nascidos apresentam todos esses sintomas. Exames de urina, saliva ou amostras de tecidoTeste de reação em cadeia da polimerase PCR usando urina, saliva, sangue ou tecidosPara diagnosticar a infecção pelo CMV, os médicos coletam amostras da urina, saliva ou tecidos do recém-nascido. As amostras são enviadas para um laboratório para que o organismo que está causando a infecção possa ser identificado. Outros testes são feitos para procurar infecção e inflamação e para determinar a seriedade dos sintomas. Os médicos podem fazer outros exames para excluir outras infecções presente no nascimento que causam sintomas semelhantes ao CMV. Uma porcentagem significativa recém-nascidos sintomáticos infectados pelo CMV morrem. A maioria dos bebês sintomáticos que sobrevive terá alguns problemas neurológicos, incluindo Problemas de visãoCerca de 5% a 15% dos recém-nascidos sem sintomas acabam desenvolvendo problemas neurológicos, mas eles são normalmente leves em comparação aos problemas desenvolvidos por recém-nascidos com sintomas. O mais comum é algum grau de perda auditiva. As mulheres grávidas devem tentar limitar sua exposição ao vírus. Por exemplo, como a infecção pelo CMV é comum em crianças que frequentam creches e como ela se dissemina facilmente, as mulheres grávidas sempre devem lavar as mãos cuidadosamente após exposição a urina e saliva de crianças em creches. Ganciclovir ou valganciclovir para recém-nascidos sintomáticosNão há cura para a infecção pelo audição dos recém-nascidos deve ser repetidamente testada durante o primeiro ano de vida. Cytomegalovirus CMV, vi rút herpes người type 5 có thể gây nhiễm trùng có nhiều mức độ nghiêm trọng. Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nhưng không kèm viêm họng nghiêm trọng thì thường gặp. Bệnh cư trú ở ổ nặng, bao gồm viêm võng mạc, có thể phát triển ở những bệnh nhân nhiễm HIV và ở những người nhận ghép tạng và những bệnh nhân suy giảm miễn dịch khác. Bệnh hệ thống nghiêm trọng có thể phát triển ở trẻ sơ sinh và những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Chẩn đoán xét nghiệm, hữu ích cho bệnh nặng, có thể liên quan đến việc nuôi cấy, xét nghiệm huyết thanh học, sinh thiết, hoặc phát hiện kháng nguyên hoặc phát hiện acid nucleic. Ganciclovir và các thuốc kháng vi-rút khác được sử dụng để điều trị bệnh nặng, đặc biệt là viêm võng vi rút herpes loại 5 của người được truyền qua máu, dịch cơ thể, hoặc các cơ quan được cấy ghép. Nhiễm trùng có thể xảy ra đột ngột hoặc trong khi lệ hiện mắc tăng theo tuổi; 60-90% người lớn bị nhiễm CMV dẫn đến nhiễm trùng lâu dài. Các nhóm kinh tế xã hội thấp có khuynh hướng có tỷ lệ nhiễm cao trùng mắc phải thường không có triệu chứng sau tưới máu/sau truyền máu có thể phát triển từ 2 đến 4 tuần sau khi truyền máu với các sản phẩm máu có chứa CMV. Nó gây sốt kéo dài từ 2 đến 3 tuần và biểu hiện giống như hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân của CMV. Phát hiện kháng nguyên CMV hoặc DNANuôi cấy nước tiểu ở trẻ sơ sinhSinh thiết thường ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịchXét nghiệm huyết thanh họcNhiễm trùng CMV được nghi ngờ là Những người khỏe mạnh có hội chứng giống như tăng bạch cầu đơn nhânNhững bệnh nhân suy giảm miễn dịch có các triệu chứng tiêu hóa, thần kinh trung ương, hoặc võng sơ sinh bị bệnh hệ thốngSự đảo chiều huyết thanh có thể được chứng minh bằng sự phát triển của các kháng thể CMV và đòi hỏi nhiễm CMV mới. Tuy nhiên, nhiều bệnh do CMV gây ra từ việc kích hoạt lại bệnh tiềm ẩn ở người chủ yếu bị suy giảm miễn dịch. Kích hoạt lại CMV có thể dẫn đến virut trong nước tiểu, các chất dịch cơ thể hoặc mô khác, nhưng sự hiện diện của CMV trong dịch cơ thể và mô không phải lúc nào cũng chỉ ra bệnh và có thể chỉ là sự lộ ra. Do đó, sinh thiết cho thấy CMV gây ra bất thường thường là cần thiết để chứng minh bệnh xâm nhập. Định lượng phát hiện kháng nguyên CMV hoặc DNA trong máu ngoại vi cũng có thể rất hữu ích vì tải lượng vi rút CMV tăng cao hoặc tăng cao thường gợi ý nhiều đến bệnh xâm đoán nhiễm CMV ở trẻ sơ sinh có thể được thực hiện bằng cách nuôi cấy nước tiểu. Đối với bệnh nghiêm trọng, thuốc kháng vi-rút ví dụ, ganciclovir, valganciclovir, foscarnet, cidofovirViêm võng mạc do CMV, xảy ra chủ yếu ở bệnh nhân AIDS, được điều trị bằng thuốc kháng virus toàn loại thuốc chống vi-rút CMV được sử dụng để điều trị bệnh nặng hơn là viêm võng mạc nhưng ít hiệu quả hơn so với viêm võng mạc. Các loại thuốc được sử dụng để điều trị viêm võng mạc CMV trong các phác đồ điều trị và điều trị duy trì Ganciclovir hoặc valganciclovirFoscarnet, có hoặc không có ganciclovirCidofovirHầu hết bệnh nhân đều nhận được điều trị theo kinh nghiệm với một trong những điều sau đây Ganciclovir 5 mg/kg IV mỗi 12 giờ trong 2 đến 3 tuầnValganciclovir 900 mg uống mỗi 12 giờ trong 21 ngàyNếu việc điều trị theo kinh nghiệm thất bại nhiều lần, cần dùng một loại thuốc khác. Điều trị duy trì giảm với một trong những điều sau đây được đưa ra sau khi điều trị tấn công Ganciclovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/ngày Valganciclovir 900 mg uống 1 lần/ngàyNgoài ra, foscarnet có thể dùng kèm với hoặc không có ganciclovir. Liều dùng là Tấn công Foscarnet 60 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ trong 2 đến 3 tuầnDuy trì Foscarnet 90 đến 120 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/ngàyTác dụng phụ của foscarnet đường tĩnh mạch rất nghiêm trọng và bao gồm độc tính thận, giảm đường huyết dưới huyết áp triệu chứng, hạ huyết áp, tăng phosphate máu, hạ kali máu, và các ảnh hưởng CNS. Điều trị phối hợp với ganciclovir và foscarnet làm tăng hiệu quả cũng như tác dụng trị bằng Cidofovir là một sự lựa chọn khác; nó bao gồm Tấn công Cydofovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/tuần trong 2 tuầnDuy trì Cidofovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi tuần một lầnHiệu quả của cidofovir tương tự như của ganciclovir hoặc foscarnet. Tác dụng phụ đáng kể, bao gồm cả suy thận, hạn chế sử dụng. Cidofovir có thể gây viêm mống mắt hoặc giảm trương lực mắt áp lực đáy ≤ 5 mm Hg. Khả năng độc tính thận có thể giảm bằng cách cho probenecid và prehydration với mỗi liều. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của probenecid, bao gồm phát ban, đau đầu, và sốt, có thể đủ ý nghĩa để ngăn ngừa việc sử dụng được sử dụng liệu pháp kháng virút tại dịch kính kết hợp với liệu pháp toàn thân cho bệnh nhân viêm võng mạc do CMV mà ngay lập tức đe dọa mắt tức là bệnh liên quan hoặc gần dây thần kinh thị giác hoặc tử cung. Ngay cả những bệnh nhân được tiêm mắt cũng cần được điều trị toàn thân để phòng ngừa CMV ở mắt đối diện và mô ngoài mắt. Điều trị dự phòng hoặc điều trị ưu tiên chủ động theo dõi bệnh nhân theo tải lượng virus và cho thuốc kháng vi-rút cho những người có bằng chứng nhiễm trùng có hiệu quả để dự phòng bệnh CMV ở người có ghép tạng hoặc người ghép tạng huyết thanh bị nhiễm CMV và có nguy cơ mắc bệnh CMV. Các loại thuốc được sử dụng bao gồm ganciclovir, valganciclovir, và foscarnet. Letermovir là một loại thuốc mới hơn với cơ chế tác dụng mới có thể được sử dụng để dự phòng trong cấy ghép tủy xương. Globulin hyperimmune CMV có thể được coi là để ngăn ngừa nhiễm CMV ở những người ghép tạng nhưng còn nhiều tranh cãi. Sáu mươi đến 90% người lớn bị CMV tiềm khỏe mạnh và người lớn có các triệu chứng nhẹ, không đặc hiệu hoặc đôi khi là hội chứng giống bạch cầu đơn nhân khi lần đầu tiên bị nhiễm trùng bẩm sinh có thể gây tử vong hoặc các ca tử vong nghiêm trọng, đôi khi gây tử vong bao gồm tổn thương gan nặng hoặc hệ thần kinh trung bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng có thể bị bệnh nghiêm trọng liên quan đến võng mạc, phổi, đường tiêu hoá, hoặc kháng vi-rút có thể giúp điều trị viêm võng mạc nhưng ít hiệu quả hơn khi các cơ quan khác bị ảnh bệnh nhân cấy ghép có nguy cơ nhiễm CMV cần phải có thuốc kháng virut dự phòng hoặc theo dõi chặt chẽ để xác định sớm nhiễm trùng. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền. Thông thường, con đường lây nhiễm bệnh phổ biến là thông qua tiếp xúc với dịch cơ thể hoặc nước tiểu. Truyền máu cũng là một đường lây truyền virus CMV phổ biến. Đa số bệnh nhân bị nhiễm CMV cấp tính không có hoặc có rất ít triệu chứng. Nếu bạn có triệu chứng nhiễm virus CMV, những xét nghiệm có thể được thực hiện để xác định xem bạn có mắc bệnh hay không. Virus này cũng có thể được xác định bằng phương pháp cấy hoặc bằng kĩ thuật PCR, với bệnh phẩm từ máu, các loại dịch cơ thể khác hay qua một mẫu sinh thiết mô. Tầm soát và xét nghiệm cho em bé Việc xét nghiệm để xác định xem bạn có nhiễm virus hay không có thể trở nên quan trọng nếu bạn đang mang thai. Phụ nữ có thai đã có kháng thể chỉ có một xác suất rất nhỏ virus tái phát và truyền cho thai nhi. Nếu bị nhiễm trong thai kỳ, bạn có thể phải chọc dịch ối để xét nghiệm. Nếu bác sĩ nghĩ rằng con bạn có thể bị nhiễm CMV bẩm sinh nhiễm từ khi mới sinh ra, việc xét nghiệm cho bé trong ba tuần đầu sau sinh là rất quan trọng. Nếu bạn đợi lâu hơn, xét nghiệm sẽ không thể kết luận con bạn bị nhiễm CMV bẩm sinh, bởi vì trẻ có thể mắc virus từ nhân viên y tế hay do phơi nhiễm với anh chị hoặc các bé đang bị nhiễm virus khác. Tầm soát và xét nghiệm nếu bạn bị suy giảm miễn dịch Xét nghiệm CMV cũng quan trọng nếu bạn đang có một rối loạn làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Ví dụ, nếu bạn bị nhiễm HIV hoặc AIDS bạn cần xét nghiệm tầm soát CMV. Thận trọng Bạn nên biết gì trước khi thực hiện xét nghiệm CMV? Để xác định người bệnh có nhiễm virus CMV không, bác sĩ có thể cho thực hiện cấy, phân lập và định danh CMV. Tuy nhiên cách này không thể phân biệt được nhiễm trùng cấp tính với nhiễm trùng mãn tính, cũng như virus có hoạt động hay không. Do đó, họ có thể cho làm xét nghiệm các kháng thể virus để tìm hiểu thêm về bệnh. Xét nghiệm kháng thể virus CMV thường dùng loại kháng thể globulin miễn dịch G và IgM. Ngoài ra, kỹ thuật PCR là một kỹ thuật nhạy và đặc hiệu dùng để chẩn đoán chính xác tình trạng nhiễm CMV. Trước khi tiến hành kỹ thuật y tế này, bạn nên hiểu rõ các cảnh báo và lưu ý. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để có thêm thông tin và hướng dẫn cụ thể. Quy trình thực hiện Quy trình thực hiện xét nghiệm CMV như thế nào? Để nuôi cấy phân lập, bác sĩ có thể chọn lấy mẫu nước tiểu, đờm hoặc nước bọt. Họ sẽ yêu cầu bạn đưa mẫu càng mới càng tốt. Các mẫu bệnh phẩm được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm virus, mất khoảng từ 3 – 7 ngày. Đối với xét nghiệm kháng thể hoặc kháng nguyên, bác sĩ sẽ lấy mẫu máu từ tĩnh mạch. Nếu đang mang thai nghi ngờ bị nhiễm trùng cấp tính, bạn nên đến bác sĩ để lấy mẫu càng sớm càng tốt. Bác sĩ sẽ yêu cầu bạn quay lại sau 2 đến 4 tuần sau mẫu đầu tiên để lấy mẫu bổ sung. Hướng dẫn đọc kết quả Kết quả xét nghiệm CMV của bạn có ý nghĩa gì? Kết quả bình thường không nhiễm CMV. Kết quả bất thường nhiễm CMV. Sự hiện diện của kháng thể kháng CMV chỉ ra một tình trạng nhiễm CMV đã hoặc đang xảy ra. Nếu số lượng kháng thể được gọi là hiệu giá kháng thể tăng lên trong vòng một vài tuần, nó có nghĩa là bạn đang bị nhiễm virus hoặc mới bị nhiễm gần đây. Nhiễm CMV mạn tính kháng thể kháng CMV hiện diện, không thay đổi trong một thời gian dài có thể tái hoạt động trên những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ nếu bạn có bất cứ câu hỏi nào về kết quả xét nghiệm. Nguyên nhân thường gặp của giảm thính lực thường do dị tật bẩm sinh và nhiễm khuẩn tai và dáy tai ở trẻ em. Nhiều trường hợp được phát hiện qua sàng lọc, tuy nhiên cần phải nghi ngờ trẻ giảm thính lực nếu trẻ không phản xạ lại với âm thanh hoặc chậm nói. Chẩn đoán thường dựa vào test điện thần kinh cơ test kích thích tai trong EOET và đáp ứng của trung tâm nghe trên thân não ở trẻ sơ sinh, khám lâm sàng và đo nhĩ lượng ở trẻ em. Điều trị mất thính lực không hồi phục có thể dùng máy trợ thính hoặc cấy ốc tai điện tử. Ở Mỹ, tình trạng giảm thính lực ở trẻ em được phát hiện trung bình ở 1,1/1000 trẻ sơ sinh được sàng lọc. Trung bình, có khoảng 1,9% trẻ "nghe có vấn đề". Khiếm thính ở trẻ nam nhiều hơn một chút so với trẻ nữ; tỷ lệ nam/nữ trung bình là 1,241. Nguyên nhân phổ biến nhất gây nên tình trạng giảm thính lực ở trẻ sơ sinh là Các yếu tố nguy cơ về giảm thính lực ở trẻ sơ sinh bao gồm Trọng lượng khi sinh thấp ví dụ, 2 tuổi, đánh giá khả năng làm việc theo đơn giản lệnh, cũng như phản ứng với âm thanh bằng tai của trẻ. Đánh giá khả năng xử lý của trung tâm thính giác Xét nghiệm có thể được sử dụng cho trẻ > 7 tuổi mà nhận thức của trẻ bình thường, nhưng trẻ nghe mà không hiểu. Chẩn đoán hình ảnh thường được chỉ định để xác định nguyên nhân và tiên lượng bệnh. Đối với hầu hết các trường hợp, bao gồm cả khi khám thần kinh không bình thường, nhận dạng từ kém, và/hoặc giảm thính lực không đối xứng, cần chụp MRI tiêm thuốc cản quang. Nếu nghi ngờ bất thường về xương, chụp CT scan. 1. US Preventive Services Task Force Universal screening for hearing loss in newborns US Preventive Services Task Force recommendation statement. Pediatrics 1221143–148, 2008. doi Sử dụng thiết bị trợ thính hoặc cấy ốc tai cho trường hợp mất giảm thính lực không hồi phụcĐôi khi dạy ngôn ngữ không có tiếng cho trẻ Các trường hợp giảm thích lực có thể hồi phục sẽ được chữa trị. Đại dịch COVID-19 yêu cầu các chuyên gia thính giác phát triển các cách theo dõi và tương tác từ xa với trẻ khiếm thính. Một số phương pháp này, ví dụ, theo dõi và lập trình từ xa các thiết bị và kỹ thuật trị liệu ngôn ngữ trực tuyến hoặc trong ứng dụng, có thể vẫn hữu ích cho bệnh nhân ngay cả sau khi các hạn chế về đại dịch được dỡ bỏ. 1. Brotto D, Sorrentino F, Favaretto N, et al Pediatric hearing loss management in the COVID-19 era Possible consequences and resources for the next future. Otolaryngol Head Neck Surg 1662217–218, 2021. doi Marom T, Pitaro J, Shah UK, et al Otitis media practice during the COVID-19 pandemic. Front Cell Infect Microbiol 11749911, 2022. doi Nguyên nhân phổ biến của nghe kém ở trẻ sơ sinh là nhiễm cytomegalovirus hoặc các khuyết tật di truyền và ở trẻ nhỏ và trẻ lớn là do tích tụ ráy tai và do dịch trong tai ngờ giảm thính lực nếu đáp ứng đối với âm thanh hoặc sự phát triển về lời nói và ngôn ngữ của trẻ bất lọc sơ sinh cho trẻ, bắt đầu bằng test kích thích tai trong đoán dựa vào khám lâm sàng và kết quả đo nhĩ lượng trị giảm thính lực không hồi phục bằng máy trợ thính hoặc cấy ốc tai và hỗ trợ ngôn ngữ ví dụ, giảng dạy ngôn ngữ ký hiệu nếu cần. Cytomegalovirus là một loại virus rất phổ biến, bình thường CMV không gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tuy nhiên với một số đối tượng, đặc biệt là phụ nữ mang thai nhiễm CMV có thể gây tổn thương vĩnh viễn cho thai nhi. Vậy xét nghiệm CMV là gì? CMV là tên viết tắt của Cytomegalovirus, một loại virus rất phổ biến nhưng những người nhiễm bệnh lại hiếm khi xuất hiện triệu chứng đặc trưng. Thống kê tại Hoa Kỳ cho thấy có đến 50 – 85% người nhiễm CMV, đối tượng gặp phổ biến là trẻ em hoặc thanh thiếu cùng họ với các loại virus như Epstein-Barr, herpes và varicella tác nhân gây bệnh thủy đậu, giời leo. Khi xâm nhập vào tế bào, virus sao chép và nhân lên trong nhân tế bào. Quá trình sao chép tạo nên các hạt vùi lớn trong nhân và nhiều hạt vùi nhỏ hơn ở bào người, CMV được phát hiện nhân lên trong tế bào của nhiều cơ quan khác nhau như tuyến nước bọt, gan, thận, phổi, tế bào lymphocyte. Ở những bệnh nhân nhiễm CMV, virus được tìm thấy ở nhiều dịch tiết cơ thể như nước tiểu, máu, nước bọt, tinh dịch, sữa mẹ, dịch não tủy, dịch tiết âm đạo... Do đó chúng dễ dàng lây nhiễm cho người khác thông qua những con đường như tiếp xúc với máu hoặc các loại dịch tiết, quan hệ tình dục hoặc truyền từ mẹ sang khi trải qua giai đoạn nhiễm virus nguyên phát, CMV có thể chuyển sang thể bất hoạt động giai đoạn tiềm ẩn để tồn tại trong cơ thể người đến suốt cuộc đời mà không gây bất cứ triệu chứng nào và có nguy cơ tái phát trở lại khi hệ miễn dịch cơ thể bị suy yếu đáng nghiệm CMV là xét nghiệm kiểm tra sự hiện diện của Cytomegalovirus trong máu bệnh nhân. Do bệnh không gây quá nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe nếu người nhiễm CMV là thanh thiếu niên, người khỏe mạnh nên thường không cần xét nghiệm. Hầu hết trường hợp cần làm xét nghiệm CMV là phụ nữ đang mang thai, người suy giảm miễn dịch hoặc bệnh nhân cần ghép biệt những phụ nữ mới nhiễm hoặc đã nhiễm CMV từ trước và bị tái phát có nguy cơ rất cao gây nhiễm trùng bẩm sinh cho trẻ. Thống kê cho thấy, có đến 10% trẻ sơ sinh nhiễm CMV bẩm sinh dẫn đến các tổn thương vĩnh viễn như chậm phát triển trí tuệ và bất thường về thính giác. Bên cạnh đó, nhiễm CMV bào thai có thể dẫn đến tật bại não, đầu nhỏ, não úng thủy, chậm phát triển, thậm chí tử tác nhân gây bệnh nhiễm trùng ảnh hưởng bất lợi lên thai nhi được gọi chung bằng thuật ngữ TORCH, bao gồm nhiễm Toxoplasma, bệnh khác Other, Rubella, CMV, Herpes. 2. Cytomegalovirus lây qua con đường nào? CMV có thể lây cho người thông qua nhiều con đường khác nhau nhưng thường gặp trong các trường hợp sauTruyền máu, ghép tạng Quá trình lây nhiễm CMV có thể do virus tồn tại trong máu, chế phẩm máu hoặc trong tạng của người hiến;Mẹ nhiễm CMV và truyền sang con trong quá trình mang thai và trong khi sinh do virus tồn tại trong dịch tiết âm đạo hoặc truyền qua sữa mẹ khi cho con bú; ngoài ra trong giai đoạn sơ sinh, trẻ có thể bị nhiễm CMV thông qua các hoạt động chăm sóc hàng xúc trực tiếp với các dịch tiết cơ thể người nhiễm bệnh như nước bọt, phân, nước tiểu, nước mắt, máu, tinh dịch, dịch âm đạo... Cytomegalovirus lây qua đường truyền máu, vì vậy cần xét nghiệm CMV giúp phát hiện và điều trị kịp thời 3. Ai cần xét nghiệm CMV? Xét nghiệm CMV cho người nghi nhiễmXét nghiệm CMV sẽ được thực hiện khi một người có dấu hiệu nghi ngờ đã nhiễm CMV. Virus thường gặp ở phụ nữ mang thai, trẻ em, trẻ vị thành niên và một số đối tượng nguy cơ cao như đồng tính nam, người được cấy ghép nội tạng và bệnh nhân mắc HIV/ miễn dịch suy giảm là cơ hội để các loại virus tấn công và xâm nhập cơ thể, trong đó có virus CMV và gây ra nhiều bệnh lý, biến chứng khác nhau. Những người bị suy giảm miễn dịch thường là bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, người cấy ghép nội tạng, cấy ghép tủy xương...Nếu có những triệu chứng nghi nhiễm CMV, xét nghiệm CMV sẽ giúp xác định chính xác có thực sự mắc bệnh hay không. Xét nghiệm CMV có thể thực hiện bằng các phương pháp khác nhau như miễn dịch tự động, PCR với mẫu bệnh phẩm là máu hoặc các loại dịch tiết cơ Xét nghiệm CMV với phụ nữ mang thaiXét nghiệm CMV rất cần thiết đối với phụ nữ mang thai, đặc biệt nếu có sự xuất hiện của kháng thể IgM dù rất nhỏ đều có thể gợi ý tình trạng tái hoạt động virus và gây nhiễm virus cho thai sản phụ phát hiện nhiễm CMV trong tam cá nguyệt đầu tiên của thai kỳ sẽ được bác sĩ cân nhắc và chỉ định chọc dịch ối thai nhi để xét nghiệm có nhiễm CMV hay không. Bên cạnh đó, xét nghiệm dịch ối còn có thể giúp phát hiện tình trạng nhiễm các loại virus Xét nghiệm CMV với trẻ sơ sinhNếu bác sĩ nghi ngờ trẻ bị nhiễm virus bẩm sinh sẽ chỉ định xét nghiệm CMV trong 3 tuần đầu tiên sau sinh. Xét nghiệm này cần được thực hiện càng sớm càng tốt để xác định trẻ nhiễm virus bẩm sinh hay do nhiễm virus từ môi trường xung quanh. 4. Lưu ý khi xét nghiệm CMV Có nhiều phương pháp xét nghiệm CMV khác nhau bao gồmQuan sát trực tiếp dưới kính hiển vi;Phân lập virus;Xét nghiệm CMV - DNA bằng kỹ thuật PCR;Xét nghiệm tìm kháng thể IgM/IgG bằng phương pháp huyết thanh học, kỹ thuật này có thể thực hiện đồng thời để phát hiện nhiễm các virus khác như cúm, Epstein-Barr virus... khi người bệnh có triệu chứng cúm bao gồm mệt mỏi, viêm họng, nổi hạch, đau đầu, đau nhức cơ, khớp... Xét nghiệm CMV có thể được thực hiện bằng cách quan sát trực tiếp dưới kính hiển vi Đầu tiên, để xác định nhiễm CMV hay không, bác sĩ sẽ thực hiện cấy, phân lập và định danh CMV bằng mẫu bệnh phẩm từ các loại dịch tiết cơ thể. Tuy nhiên, phương pháp xét nghiệm CMV này không phân biệt được nhiễm CMV cấp tính hay mạn tính, virus đang hoạt động hay không hoạt đó, xét nghiệm CMV tìm kháng thể cần thực hiện để xác định chính xác tình trạng nhiễm virus. Tuy nhiên, giá thành xét nghiệm kháng thể virus CMV tương đối cao và thường tìm kháng thể IgG và nay, kỹ thuật xét nghiệm CMV bằng phương pháp PCR có độ nhạy, độ đặc hiệu cao, được áp dụng để chẩn đoán chính xác tình trạng nhiễm bệnh phẩm làm xét nghiệm CMVVới xét nghiệm nuôi cấy phân lập virus, mẫu bệnh phẩm có thể là nước tiểu, đờm hoặc nước bọt. Quá trình nuôi cấy virus trong phòng thí nghiệm virus thường mất khoảng từ 3 – 7 ngày;Đối với xét nghiệm kháng thể hoặc PCR, bác sĩ sẽ lấy mẫu bệnh phẩm là máu tĩnh biệt, đối với xét nghiệm CMV tìm kháng thể IgG/IgM, bác sĩ sẽ yêu cầu người bệnh quay lại sau 2 đến 4 tuần từ lần lấy mẫu đầu tiên để lấy mẫu bệnh phẩm bổ hiện diện của kháng thể kháng CMV ở mẫu bệnh phẩm đầu tiên gợi ý có tình trạng đã hoặc đang nhiễm CMV. Nếu số lượng kháng thể được gọi là hiệu giá kháng thể tăng lên trong vòng 2-4 tuần ở lần xét nghiệm bổ sung giúp xác định bệnh nhân đang nhiễm hoặc mới bị nhiễm CMV gần nhiễm CMV mạn tính kháng thể kháng CMV hiện diện nhưng không thay đổi trong một thời gian dài có thể tái phát ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Những người nhiễm CMV tiên phát, kháng thể IgM có thể tìm thấy rất sớm sau 4 - 7 tuần nhiễm virus và tồn tại khoảng 16 - 20 tuần, còn kháng thể IgG xuất hiện muộn hơn nhưng tồn tại lâu hơn có thể kéo dài nhiều năm. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Xét nghiệm CMV IgG dương tính có phải đang nhiễm virus? Tổng quan chung về cytomegalovirus - Phần 2 Thai phụ CMV IgM âm tính có ảnh hưởng gì?

nhiễm cmv trẻ em